Động vật sử dụng trong nghiên cứu
Contents
3.6. Động vật sử dụng trong nghiên cứu#
3.6.1. Tại sao động vật bị sử dụng trong thí nghiệm?#
Có nhiều lý do cho việc này, đầu tiên chúng ta sử dụng động vật để tìm hiểu các kiến thức sinh học cơ bản, để biết thêm về cách vận hành của cơ thể, cách các cơ quan nội tạng hoạt động bên trong cơ thể của những loài động vật đó và sau đó nghiên cứu sự liên quan đến cơ thể con người. Thứ hai là để khám phá và sau đó là phát triển các loại thuốc mới, cách chữa trị mới cho các căn bệnh. Thứ ba là để phát triển một số thứ như vắc-xin. Và còn để thử nghiệm độ an toàn của những loại thuốc hay vắc-xin đó, cũng như thử nghiệm độ an toàn của chất hóa học hay sản phẩm để đảm bảo cho con người ăn hoặc sử dụng. Động vật bị sử dụng trong nghiên cứu về môi trường, để kiểm tra tác động của chúng lên môi trường cũng như lên con người. Động vật cũng bị sử dụng trong giáo dục và huấn luyện nữa. Động vật bị sử dụng trong nghiên cứu, bị sử dụng cho những hoạt động dạy học, cho bác sĩ, bác sĩ thú y và nhân viên y tế.
3.6.2. Có bao nhiêu cá thể đã bị sử dụng?#
Rất khó để chúng ta biết có bao nhiêu cá thể động vật bị sử dụng trong nghiên cứu. Tổ chức Chống tàn bạo với động vật Quốc tế (Cruelty Free International), một tổ chức có chiến dịch chấm dứt việc sử dụng động vật trong nghiên cứu, đã ước tính rằng trong năm 2015, có ít nhất 192 triệu động vật đã bị sử dụng cho những mục đích khoa học trên toàn thế giới. Rất khó để ước lượng ra những con số này, bởi vì không phải quốc gia nào cũng ghi chép lại số liệu và sẵn sàng công bố chúng. Không phải tất cả số động vật đó đều bị thí nghiệm, một số được sử dụng với mục đích nhân giống để có thể có nhiều động vật thí nghiệm hơn.
3.6.3. Những loài nào bị sử dụng trong thí nghiệm?#
Có rất nhiều giống loài động vật được sử dụng ở đây. Một số loài có thể được kể đến là: gặm nhấm, chuột, chuột bạch, thỏ, chó, mèo, linh trưởng, động vật trang trại, lợn, cừu, một số lượng lớn cá, cả động vật bò sát và lưỡng cư nữa.
3.6.4. Hoạt động nghiên cứu tại một số quốc gia#
Một nghiên cứu của Liên minh Châu Âu (EU) đã ước tính vào năm 2017, có 10,9 triệu thí nghiệm đã diễn ra trên động vật trên khắp EU. Hơn 12,6 triệu động vật đã bị phối giống rồi bị giết nhưng không được sử dụng trong thí nghiệm. Ước tính rằng chỉ có khoảng 20% trong số gần 11 triệu thí nghiệm là được yêu cầu bởi cơ quan quản lý, như vậy, một số lượng lớn thí nghiệm không phải là thú nghiệm quan trọng cần thực hiện.
Tại Mỹ, số liệu từ năm 2017-2018 cho biết có khoảng hơn 111 triệu chuột chắt đã bị sử trong thí nghiệm, tuy nhiên chính phủ Mỹ chỉ báo cáo rằng chỉ có 797 nghìn động vật bị sử dụng. Điều này là bởi động vật như chuột nhắt, chuột lang và cá không được bảo vệ bởi luật phúc lợi động vật ở Mỹ, do đó chúng cũng không cần được báo cáo. Chúng được sử dụng mà không được báo cáo trong số liệu chính thức. Hơn 137 nghìn động vật khác bị phối giống tuy nhiên lại không được sử dụng trong nghiên cứu.
Tại Trung Quốc, trong những năm gần đây số lượng động vật bị sử dụng trong thí nghiệm đang tăng lên, ước tính lên tới khoảng 12-13 triệu động vật. Con số này tăng lên bởi một số quốc gia như Anh và EU đang có những đạo luật nhằm hạn chế thí nghiệm trên động vật. Các công ty do đó sẽ sử dụng nguồn lực bên ngoài quốc gia, và trong nhiều trường hợp đó là Trung Quốc. Do đó, dù chúng ta đang thấy luật lệ và giới hạn đang dần được cải thiện ở một số quốc gia, điều đó không có nghĩa là các thí nghiệm không xảy ra, nó chỉ chuyển địa điểm quốc gia khác mà thôi. Thêm nữa, Trung Quốc phối giống rất nhiều động vật dùng cho thí nghiệm, cụ thể như linh trưởng, chủ yếu là khỉ, ước tính rằng họ đã xuất khẩu 40 nghìn linh trưởng sử dụng trong thí nghiệm sang quốc gia khác.
3.6.5. Các loại hình nghiên cứu#
Các loại hình nghiên cứu động vật có thể được xếp vào 3 thể loại. Đầu tiên là nghiên cứu sinh học cơ bản và nghiên cứu phát triển thuốc. Không bao gồm thí nghiệm các loại thuốc mới, loại được yêu cầu bởi luật. Loại nghiên cứu này còn để kiểm tra khả năng phá hủy chức năng nội tạng ở động vật, kiểm tra độ phản ứng của thuốc lên động vật hoặc mức độ động vật vị ảnh hưởng bởi những tổn thương đó.
Dạng nghiên cứu thứ hai là nghiên cứu biến đổi gen ở động vật. Đây là hoạt động phối giống động vật bằng cách xóa bỏ hoặc cấy một vài gen cụ thể vào cơ thể động vật. Điều này sẽ gây nên nhiều điều bất lợi, không khỏe mạnh lên cơ thể động vật. Rất nhiều con sau đó phải trải qua quá trình xâm phạm cao như lấy đi một vài bộ phận nhỏ trên cơ thể để tiến hành nghiên cứu kiểu gen. Và sau đó vào cuối đời, những động vật này sẽ bị giết, giống như phần lớn động vật thí nghiệm khác. Có một số lượng lớn động vật bị sử dụng trong thí nghiệm cải tạo gen, bị phối giống, bị giết mà không có bất cứ lợi ích hay kết quả nào có lợi cho con người.
Dạng nghiên cứu cuối cùng là kiểm tra theo quy định. Kiểm tra tiêu chuẩn xem liệu loại thuốc hoặc chất hóa học trong mỹ phẩm có an toàn cho con người sử dụng hay không và loại thuốc đó có đang làm điều mà nó nên làm hay không. Động vật bị buộc phải ăn, bôi, tiêm hoặc hít một số chất hóa học lên cơ thể để xem điều gì sẽ xảy ra. Và những động vật này có thể phải trải qua điều kiện này trong nhiều giờ, bị xích trong điều kiện kinh khủng, bị cách ly xã hội khỏi những cá thể khác và phải trải qua nhiều đau đớn.
3.6.6. Vấn đề về phúc lợi động vật#
Ngoài các vấn đề phúc lợi trong thử nghiệm trên động vật, vẫn còn các vấn đề khác chúng ta cần xem xét khi nói đến việc sử dụng động vật trong nghiên cứu. Một trong những vấn đề đó là hệ thống chuồng nuôi giữ động vật dùng trong nghiên cứu, tác động của chuồng nuôi lên động vật. Hệ thống chuồng nuôi thường được thiết kế để giữ chi phí thấp, dễ bảo trì và dễ tiếp cận thường xuyên. Nhiều động vật thường được nuôi trong những môi trường hoàn toàn thiếu thốn, không một chút tương tác xã hội, căng thẳng và cạnh tranh về tài nguyên giữa các cá thể sẽ khiến thương tích nặng hơn.
Quy trình xử lý cũng gây ra nhiều căng thẳng cho động vật thí nghiệm, ví dụ với linh trưởng. Linh trưởng có khả năng đe dọa tới các nghiên cứu viên, kết quả là chúng sẽ bị kiềm chế mạnh hơn, bị xích, bị giữ chặt đầu để không thể di chuyển. Điều này gây ra căng thẳng rất lớn cho động vật.
Quy trình nhận dạng, đặc biệt là đối với động vật nuôi nhốt theo nhóm, điều này có thể được thực hiện thông qua việc lấy đi một ít da, thường là phần ở tai, điều này một lần nữa có thể rất đau đớn cho động vật, khi chúng không được sử dụng thuốc gây tê.
Sau khi hết giá trị hay khi chúng được quyết định không còn cần thiết nữa, động vật sẽ bị giết. Một số động vật bị giết trong quá trình thí nghiệm, có thể chúng sẽ bị gây mê trong quá trình thí nghiệm và sau đó bị giết, hoặc bị làm cho ngạt khí CO2, một trong những cách hiệu quả nhất để giết một số lượng động vật lớn động vật. Đa phần động vật phải trải qua một cuộc sống rất căng thẳng, và cuối cùng bị giết một cách đau đớn.
3.6.7. Liệu nghiên cứu trên động vật có thực sự hiệu quả?#
90% số thuốc được thông qua khi thử nghiệm trên động vật vẫn không đạt tiêu chuẩn an toàn hoặc không có hiệu quả với con người. Điều này là do quá trình ADME rất khác giữa các loài. Đây là cách cơ thể hấp thu chất hóa học, cách phân phối chất trong cơ thể, cách cơ thể chuyển hóa và xử lý chất, và cách loại bỏ chất ra ngoài cơ thể. Do đó, ta khó có thể suy ra những loại chất, thuốc, vacxin có hiệu quả trên động vật có kết quả tương tự với con người.
3.6.8. Các biện pháp thay thế thí nghiệm trên động vật#
Hiện đang có một số lựa chọn thay thế khác, như sự phát triển của tế bào 3D, phát triển tế bào, nuôi cấy tế bào để chúng có thể được sử dụng như mô người. Phát triển các cơ quan, phát triển các bản sao cơ quan nhỏ của chính chúng ta trong các hộp vi mạch nhỏ.
Cách thứ hai là sử dụng mô người, lấy mẫu mô từ người có bệnh mà chúng ta đang cố gắng tìm cách chữa trị và sau đó sử dụng những mô bệnh đó trong các thí nghiệm. Điều này có nhiều tác động hơn, hiệu quả hơn vì thí nghiệm thực sự đang xem xét các vấn đề của con người, trên một người có thực.
Cách thứ ba là sử dụng mô hình máy tính. Phát triển mô hình máy tính các cơ quan và sau đó đưa các loại thuốc khác nhau vào các mô hình máy tính đó để xem tác động của nó là gì. Ngoài ra còn sử dụng máy tính và dữ liệu để phân tích.
Cách thứ tư là sử dụng tình nguyện viên. Con người có thể tình nguyện để được thí nghiệm và điều này sẽ không được thực hiện giống như cách chúng ta làm với động vật, chúng ta làm mà không có sự đồng ý của động vật. Chúng ta cung cấp cho chúng liều lượng cao có thể gây chết động vật trong khi đối với con người thì lại cần phải xem xét về mặt đạo đức và thường thì liều lượng được sử dụng rất nhỏ để không có tác hại, mà chỉ để xem xét tác động đối với những tình nguyện viên đó.
Cuối cùng là sử dụng trình mô phỏng. Mô phỏng cơ thể con người để từ đó thực hiện các quá trình khác nhau và chúng sẽ cho phản ứng giống như cách cơ thể người sẽ phản ứng.
3.6.9. Kết luận#
Như vậy, có rất nhiều phương pháp thay thế việc sử dụng động vật trong thí nghiệm, có những công nghệ thay thế đáng kinh ngạc ngoài kia cần được đầu tư. Chính phủ các nước cần phải nhìn nhận và ngừng nói rằng họ có một số loại thuốc nhất định phải trải qua các thủ tục thử nghiệm trên động vật để được được quản lý và cho phép sử dụng trong phạm vi quốc gia của họ. Có hơn 190 triệu động vật bị thí nghiệm mỗi năm và nhiều mạng sống trong số đó có thể được cứu nếu tất cả chúng ta đều nỗ lực hướng tới sự phát triển và sử dụng các giải pháp thay thế thay cho việc sử dụng và thử nghiệm trên động vật.